Phòng trừ dịch hại tổng hợp


PHÒNG TRỪ DỊCH HẠI TỔNG HỢP


Vòng đời rầy nâu

Ốc bươu vàng

Chuột đồng

1-Định nghĩa

"Dịch hại cây trồng" có một định nghĩa rất cụ thể trong điều khoản của Công ước Bảo vệ Thực vật Quốc tế và các biện pháp kiểm dịch động thực vật trên toàn thế giới. 
Dịch hại là bất cứ loài, chủng hoặc biotype của tác nhân gây tổn hại thực vật, động vật, hoặc gây bệnh cho thực vật hoặc sản phẩm thực vật” (FAO, năm 1990, sửa đổi FAO, 1995; IPPC, 1997).
Dịch hại cây trồng là những đối tượng sinh vật dùng các bộ phận của cây trồng làm nguồn dinh dưỡng. Chúng ăn phá trực tiếp hoặc ký sinh làm cho cây trồng bị mất đi hay bị tổn thương các bộ phận, làm cho cây trồng kém phát triển hay bị chết và cuối cùng làm giảm năng suất trồng trọt. Khi dịch hại bộc phát trên diện rộng được gọi là dịch (với tên loài gây hại cụ thể) ví dụ như dịch chuột, dịch rầy nâu…
Ở gốc độ sinh thái, cây trồng là sinh vật mức I, là mức khởi đầu trong chuổi thức ăn của hệ thống sinh vật, nguồn cung cấp dinh dưỡng ban đầu từ năng lượng ánh sáng mặt trời và các chất khoáng có trong đất. Trong khi đó dịch hại là sinh vật mức II, dùng nguồn thức ăn từ sinh vật mức I tức cây trồng. Theo nghĩa này dịch hại là những đối tượng gây hại cây trồng cùng tồn tại trong một hệ sinh thái.

Nhiều chủng loại thuốc BVTV

2-Phân loại dịch hại

Có rất nhiều loài sinh vật gây hại thực vật nói chung và gây hại đối với từng loài cây trồng nói riêng, gồm những sinh vật ký sinh gây bệnh có kích thước nhỏ bé như virus, vi khuẩn, nấm bệnh cho đến những loài có kích khá lớn mà mắt con người quan sát được như côn trùng, động vật có xương sống như chuột, sóc…
Sau đây là những loài dịch hại cây trồng thường gặp:

a-Các loài dịch hại cây trồng là vi sinh vật

1-Virus hại cây trồng: Là những loài vi sinh vật chuyên ký sinh trên thực vật còn sống, những loài này không tồn tại được ngoài môi trường, ngoài ký sinh trong thực vật chúng còn sống được trong cơ thể của môi giới truyền bệnh như côn trùng, các loài nhện nhỏ và tuyến trùng…
2-Mycoplasma: Là dạng vi sinh vật có tế bào nhỏ nhất được biết đến khoảng 0,1 micron (micron) đường kính. Loài này ký sinh gây hại thực vật giống như virus.
2-Vi khuẩn ký sinh gây hại cây trồng: Là những loài vi sinh vật chuyên ký sinh gây bệnh thực vật, ngoài việc sống trong cây, các loài vi khuẩn ở dạng tế bào hay bào tử có khả năng sống được ở môi trường bên ngoài và từ đó lan rộng từ cây này sang cây khác.
3-Nấm ký sinh gây hại cây trồng: Gồm nhiều loài vi nấm ký sinh gây hại trên tất cả các bộ phận của cây trồng như rể, thân, lá, hoa, quả, hạt.
4-Tuyến trùng gây hại cây trồng: Tuyến trùng là động vật có kích thước khá lớn so với vi khuẩn và nấm, tuy nhiên do mắt thường khó nhìn thấy nên được xếp vào vi sinh vật hại cây. Tuyến trùng thường gây hại ở rể và thân, lá.

b-Các loài dịch hại cây trồng côn trùng

Có rất nhiều loài côn trùng là dịch hại cây trồng như:
1-Bộ cánh đều= Bộ Đẳng cánh (Isoptera) : như mối
2-Bộ bọ ngựa (Mantodea): Như Bọ ngựa.
3-Bộ cánh da (Dermaptera) :
4-Bộ cánh úp (Plecoptera): 
5-Bộ cánh thẳng (Orthoptera): Như Châu chấu, cào cào, muồm muỗm, dế…
6-Bộ Psocoptera như: Rệp sáp
7-Bộ cánh viền (Thysanoptera): Như, Bọ trĩ
8-Bộ cánh nửa (Hemiptera) : Như rầy nâu, rầy xanh.
9-Bộ cánh cứng (Coleoptera): Như Bọ hung, Đuôn dừa..
10-Bộ hai cánh (Diptera) : Như Ruồi đục quả, muỗi hành…
11-Bộ Cánh vẩy/cánh phấn (Lepidoptera): Như Sâu cuốn lá lúa, sâu phao…
12-Bộ cánh màng (Hymenoptera): Như kiến, ong…

c-Các loài dịch hại là nhện nhỏ

Có hai loài nhện nhỏ phổ biến là:
1-Nhện đỏ: Hại cây trồng cạn.
2-Nhện gié hại lúa: Xuất hiện ở Nam và Trung Bộ Việt Nam trong những năm gần đây.

d- Các loài dịch hại cây trồng là động vật

1-Cua đồng
2-Ốc bươu vàng
3-Chim
4-Dơi
5-Chuột

e- Các dịch hại là thực vật

1-Rong, tảo
2-Bèo
3-Cỏ dại
4-Cây dại
5-Dây leo ký sinh

3-Phòng trừ dịch hại

            Do thiệt hại hàng năm do dịch hại rất lớn, trung bình giảm năng suất từ 10-20%. Những ruộng, vười bị thiệt hại nặng có thể giảm trên 50% năng suất hoặc mất trắng.
            Vì vậy công tác bảo vệ thực vật trước hết là nhiệm vụ của người nông dân trực tiếp sản xuất ra cây trồng.
Phòng trừ dịch hại liên quan đến quy định hay quản lý của một loài được định nghĩa như là loài dịch hại, thường là bởi vì nó được xem là bất lợi cho sức khỏe con người, môi trường sinh thái hoặc nền kinh tế.
Ở mỗi nước có ngành Bảo vệ thực vật trực thuộc Bộ nông nghiệp quản lý. Ngành Bảo vệ thực vật chịu trách nhiệm tổng hợp tình hình địch hại, dự tính dự báo tình hình dịch hại sắp xảy ra. Là ngành chịu trách nhiệm hướng dẫn nông dân thực hiện tốt công tác Bảo vệ thực vật. Chính phủ mỗi nước có Pháp lệnh hoặc Luật Bảo vệ thực vật riêng.
Mỗi địa phương ở những nước nông nghiệp từ cấp xã hoặc từ cấp huyện trở lên có ngành Bảo vệ thực vật thuộc tổ chức Nhà nước địa phương hay Công ty tư nhân quản lý.
Phòng trừ dịch hại cây trồng có lịch sử phát triển từ lâu đời. Ở Trung Đông người Sumer cổ đại đã biết dùng các hợp chất lưu huỳnh như thuốc trừ sâu và bệnh cây cách nay khoảng 4.000 năm. Ở Ấn Độ, thời kỳ văn minh Vệ Đà (cách nay khoảng 4.000 năm) trong Kinh Vệ Đà cũng đề cập đến việc sử dụng các thực vật có độc tố để kiểm soát dịch hại cây trồng.
Ở Châu Âu trong thế kỷ thứ 18,19 đã phát triển ngành công nghiệp sản xuất thuốc hóa học vô cơ để phòng trừ địch hại.
Kể thừ sau thế chiến thứ II, thuốc trừ sâu tổng hợp DDT ra đời, mở ra kỷ nguyên mới cho ngành thuốc BVTV. Từ đó đến nay có hàng ngàn hóa chất bảo vệ thực vật ra đời, bước đầu chúng có tác dụng thiết thực trong phòng trừ sâu bệnh cây trồng.
Nhưng thuốc BVTV là con dao hai lưỡi, một mặt nó diệt được dịch hại nhanh chóng, nhưng mặt khác nó gây ô nhiểm môi trường, tác động tiêu cực đến hệ sinh thái tự nhiên và tạo ra những type côn trùng kháng thuốc.
Do đó trong khoảng 50 năm (1945-1995) biện pháp phòng trừ dịch hại (pest control) dùng thuốc hóa học là chủ yếu đã trở nên tai họa và Chương trình quản lý dịch hại tổng hợp IPM (Integrated Pest Management) ra đời.
Khuynh hướng ngày nay trong quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) có những bước phát triển mới như phát triển công nghệ sinh thái (trồng hoa trên bờ ruộng), dùng nhiều chế phẩm vi sinh và kể cả nuôi côn trùng thiên địch để phóng thích ra đồng ruộng nhằm kiểm soát dịch hại, như công nghệ nuôi ong mắt đỏ thả ra đồng để trừ sâu cánh vãy trên ruộng trồng cây hướng dương ở Nga, thả ong ký sinh để diệt bọ cánh cứng hại dừa ở Việt Nam.
Tuy nhiên dùng thuốc hóa học phòng trừ dịch hại cũng đóng vai trò quan trọng và chủ lực trong phòng trừ dịch hại, nhưng phải cân nhắc lại theo quan điểm sinh thái.

Phun thuốc BVTV ở Việt Nam

Máy bay phun thuốc BVTV ở trang trại Mỹ

4-Các biện pháp Phòng trừ dịch hại tổng hợp

4-1. BIỆN PHÁP KIỂM DỊCH VÀ KHỬ TRÙNG:
a-Kiểm dịch thực vật: là biện pháp  ngăn ngừa sự xâm nhập của sâu bệnh mới và cỏ dại từ nước ngoài vào trong nước hoặc lây lan giữa các vùng trong nước.Đây là công việc hết sức quan trọng của mỗi quốc gia và được thể hiện bằng văn bản pháp luật.Thông thường khi các loại sâu bệnh   hại xâm nhập đến những  vùng lãnh thổ mới ,nếu gặp điều kiện  khí hậu thích hợp,chúng sẽ phát triển mạnh mẽ vì không gập sự khống chế của các loài thiên địch nơi bản địa.Các loại cỏ dại  cũng phát triển  nhanh vì không có côn trùng  gây hại hoặc VSV gây bệnh khống chế.Sự xâm nhập của ốc bươu vàng (Pomacea canaliculata) vào nước ta trong thời gian qua là một ví dụ.
b-Khử trùng:  khử trùng các vật liệu làm giống (hạt,hom,củ...) bị nhiễm sâu bệnh  trước khi đem trồng cũng là một biện pháp  để ngăn ngừa sâu bệnh  lan rộng trên đồng ruộng, giảm được chi phí phòng trừ  trong  sản xuất .Việc khử trùng thường được tiến hành với các thuốc diệt nấm, thuốc xông hơi diệt sâu bọ, xử lý nước nóng, xử lý nhiệt, dùng tia phóng xạ. Làm sạch hạt giống bị lẫn cỏ dại  cũng là biện pháp  ngăn ngừa tác hại của cỏ dại  trên đồng ruộng. 
4-2. BIỆN PHÁP CƠ GIỚI:
Đây là biện pháp  đơn giản, dễ thực hiện và đã được áp dụng từ lâu đời. Nguyên lý của biện pháp  này là dùng tay bắt giết sâu bọ, ngắt bỏ lá thân bị bệnh, thu lượm ổ trứng...Biện pháp này đã được áp dụng phổ biến trước đây như những  chiến dịch thu lượm ổ trứng sâu  đục thân, ngắt lá bệnh. Gần đây là chiến dịch thu lượm ốc bươu vàng  trên toàn quốc. Ưu điểm của biện pháp  này là đơn giản, rẻ tiền và tận dụng được nhân công nhàn rỗi. Song nó cũng bộc lộ khuyết điểm là có tác động chậm và hiệu quả thấp.
3. BIỆN PHÁP CANH TÁC 
Đây là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong hệ thống QLDHTH  đối với bất kỳ một loại cây trồng  nào. Các  kỹ thuật  trong biện pháp  canh tác  nhằm cải thiện điều kiện sinh thái  theo hướng có lợi cho sự sinh trưởng  cảu cây trồng  để đạt năng suất  cao , hạn chế được sự phát triển  của sâu bệnh  và tăng khả năng đền bù của cây trồng  đối với các mất  mát do sâu bệnh   hoặc tác nhân khác gây ra. Ưu điểm của biện pháp  này là chi phí thấp, dễ áp dụng trong  sản xuất, không gây ảnh hưởng đến môi trường và phát huy được hiệu quả ngay từ đầu. Đây là biện pháp chủ lực của các nhà Nông nghiệp Hữu cơ trong xu hướng bảo tồn sự đa dạng sinh học của nề nông nghiệp sinh thái bền vững.
- Làm đất và vệ sinh đồng ruộng
Làm đất sớm và vệ sinh đồng ruộng sau mỗi vụ gieo trồng rất có ý nghĩa để diệt trừ mầm mống sâu bệnh   trong đất và trên tàn dư cây trồng .Cày lật đất sớm có thể diệt được nhiều sâu non  và nhộng đục thân,sâu keo trong gốc rạ.Vệ sinh đồng ruộng ,dọn sạch tàn dư cây trồng có nghĩa là làm mất nơi cư trú của các loại  rầy và tiêu diệt hạch nấm bệnh khô vằn...là mầm mống sâu bệnh  trung chuyển sang gây hại vụ lúa tiếp theo.Nguyên lý  tác động  của biện pháp  vệ sinh đồng ruộng và xử lý tàn dư cây trồng  sau mỗi vụ là để cắt đứt vòng chu chuyển của sâu bệnh   từ vụ này sang vụ khác,hạn chế nguồn sâu bệnh   tích luỹ và lây lan ngay từ đầu vụ gieo trồng. Quan điểm IPM cho rằng không nên "sơn bờ" mà chỉ phát quang bờ ruộng,vì đó là nơi  trú ngụ cuả thiên địch sau vụ thu hoạch và sẽ là nguồn cung cấp thiên địch cho ruộng lúa ngay từ đầu vụ. 
- Luân canh
Luân canh là trồng liên tiếp nhiều loài cây trên cùng một khoảnh đất, mỗi thời gian một loài, nhằm cải tạo đất (chẳng hạn, dùng cây này sản sinh ra những chất dinh dưỡng cần cho cây sau), tận dụng các lớp đất (liên tiếp bằng những loài có rễ ăn xuống những độ sâu khác nhau. Mô hình luân canh lúa – đậu xanh đã được nông dân xã Kiến An áp dụng nhưng hiệu quả kinh tế bước đầu chưa cao. Tuy nhiên nhiều hộ nông dân cũng có lãi cao và có kinh nghiệm trong sản xuất theo mô hình luân canh này. Trồng luân canh các loại  cây trồng  khác nhau trên một cánh đồng là biện pháp  rất có  hiệu quả  để hạn chế sâu bệnh   và cỏ dại ."Rau nào sâu nấy",phần lớn các loại  sâu bệnh   trên lúa không  gây hại  cho cây trồng  khác và ngược lại.Chưa kể một số loại cây trồng  còn tiết ra chất kích thích sự phát triển  của cây trồng  và hạn chế  sâu bệnh  ở vụ sau .Vì vậy việc luân canh giữa lúa và cây trồng  khác (lúa-màu-lúa hoặc màu-lúa-màu) là phương thức canh tác  có lợi để phòng trừ  sâu bệnh. Nguyên lý của biện pháp này là cắt đứt mối quan hệ  chuyên tính giữa các sinh vật   gây hại  và cây chủ của chúng, hạn chế sự phát triển  của các loại   gây hại .
- Thời vụ gieo sạ thích hợp
Xác định thời vụ thích hợp còn phải dựa trên  đặc điểm phát sinh phá hại của sâu bệnh  quan trọng ở địa phương,bảo đảm cho cây trồng  tránh khỏi dịch bệnh làm tổn thất sản lượng.
- Gieo sạ giống chống chịu sâu bệnh
Là biện pháp  quan trọng nhằm chủ động  ngăn ngừa tác hại của sâu bệnh. Ngày nay bằng  kỹ thuật  hiện đại người ta đã tạo ra được những giống kháng rầy nâu, đạo ôn, bạc lá giúp nông dân tiết kiệm được chi phí phòng trừ  rất lớn. Thông thường sau môt thời gian các giống mất đi tính kháng sâu bệnh  do sự tiến hoá của các nòi sâu bệnh. Để ngăn ngừa tình trạng này  người ta khuyến cáo nên đa gien hoá trên đồng ruộng, nghĩa là trên một cáng đồng nên trồng nhiều loại  giống mang các gien kháng khác nhau để khi một giống bị nhiễm sẽ không có khả năng lây lan sang các giống khác và như vậy nguồn sâu bệnh  sẽ không được lây lan. Hỗn hợp giống trên một ruộng cũng là hình thức đa gien hoá để ngăn ngừa sự lây lan của bệnh. Về cơ sở khoa học .phương pháp này rất có  hiệu quả  song cũng đòi hỏi các yêu cầu khắt khe như các giống hỗn hợp nhau phải :cùng kểu hình (cao cây,dạng lá...) cùng thời gian sinh trưởng, cùng đặc tính hạt.
- Mật độ gieo sạ 
Mỗi giống cây trồng  dều có một  mật độ  khoảng cách hợp lý để đạt năng suất  cao.Mật độ này phụ thuộc vào độ phì của đất ,khả năng đẻ nhánh của giống và điều kiện  thời tiết. mật độ cây trồng  liên quan chặt chẽ đến dinh dưỡng đất,tiểu khí hậu đồng ruộng và tình hình sâu bệnh   hại. Sạ thưa dễ bị cỏ dại lấn át nhưng sạ dày quá lại tạo môi trường thuận lợi (nơi cư trú, ẩm độ ...) cho sâu bệnh phát triển như rầy nâu). 
-Bón phân cân đối hợp lý
Phân bón  có ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng  và thông qua cây trồng  có ảnh hưởng đến sự phát sinh  gây hại  của nhiều loại  sâu bệnh. Phân bón là thành phần dinh dưỡng không thể thiếu giúp cây trồng  phát triển  tốt. Tuy nhiên bón nhiều phân hoặc bón không hợp lý sẽ làm cây phát triển  không bình thường và dễ bị sâu bệnh phá hại. Ruộng lúa bón nhiều phân dễ bị lốp đổ, hấp dẫn các loại  sâu cuốn lá, sâu keo gây hại và thường các bệnh đạo ôn, khô vằn  phá hại mạnh. Bón phân không cân đối hoặc không đúng giai đoạn sinh trưởng  của cây trồng  cũng gây ra những hiện tượng tương tự. Mỗi loại  cây trồng  có yêu cầu khác nhau vè tỷ lệ NPK. Bón nhiều N mà thiếu P, K cũng dễ làm cây bị bệnh. Phân chuồng và các loại  phân vi lượng có tác dụng giúp cây sinh trưởng  khỏe ,tăng tính chống chịu sâu bệnh hại.Mỗi giai đoạn sinh trưởng  của cây trồng  có những nhu cầu khác nhau về dinh dưỡng. Lân và phân chuồng nên bón lót vì là loại khó tiêu. Kali nên chia bón hai lần vào giai đoạn đẻ nhánh và tượng khối sơ khởi, để giúp cứng cây và chống chịu sâu bệnh  và là nguồn vận chuyển ding dưỡng nuôi hạt khi lúa trỗ, làm hạt lúa chắc và sáng hơn, nên năng suất cao hơn. 
- Chế độ nước
Mỗi giai đoạn cây trồng  có nhu cầu nước khác nhau. Sau giai đoạn lúa đẻ rộ nên rút nước để hạn chế sự đẻ nhánh và giúp rễ đâm sâu để tăng tính chống đổ ngã. Khi có bệnh khô vằn không nên giữ mực nước cao vì hạch nấm sẽ dễ dàng tấn công phần ngọn lúa. Nhưng nếu bị bệnh đạo ôn thì nên giữ nước để điều tiết nhiệt độ tiểu khí hậu ruộng lúa nà nếu ruộng khô lúa sẽ hút dạng đạm tự do trong đất làm cho bệnh đạo ôn càng nặng thêm.

Cấy lúa ở Việt Nam


Thu hoạch lúa ở vùng Đồng Tháp Mười

4-IV.    BIỆN PHÁP SINH HỌC
Tổ chức đấu tranh sinh học quốc tế đã định nghĩa:"Biện pháp sinh học là việc sử dụng những sinh vật  hay các sản phẩm hoạt động sống của chúng nhằm ngăn ngừa hoặc làm giảm bớt tác hại do các sinh vật hại gây ra"(IOBC-1971). Như vậy biện pháp  sinh học là  hoạt động của con người  nhằm sử dụng  các sinh vật  sống hoặc các tác nhân sinh học  để phòng trừ  dịch hại. Nó cũng bao gồm việc  bảo vệ và tăng cường  hoạt động  của các loại  thiên địch trong tự nhiên. Do đó trong biện pháp  sinh học bao gồm các  hoạt động  sau:
a. Bảo vệ và tăng cường  hoạt động  của thiên địch sẵn có
-Bảo vệ thiên địch tránh bị độc hại do hoá chất BVTV bằng cách hạn chế tối đa việc phun thuốc, chỉ sử dụng thuốc có tính độc thấp, thuốc có nguồn gốc sinh học và tiến đến không sử dụng  thuốc trừ sâu  trên đồng ruộng.
-Tạo nơi cư trú cho thiên địch: để cỏ và trồng cây họ đậu trên bờ ruộng, làm các bờ rạ cho thiên địch ẩn nấp.
-Các kỹ thuật canh tác giúp duy trì và phát triển thiên địch:luôn giữ mực nước ruộng, gieo sạ  mật độ  thích hợp, biện pháp hợp lý.
b. Nhập nội các thiên địch mới 
Hoạt động  này thường được sử dụng  trong những trường hợp sâu hại từ nước ngoài du nhập vào, chưa có các thiên địch đủ sức khống chế ở trong nước.ở VN người ta đang tìm cách nhập nội thiên địch của ốc bươu vàng  từ Nam mỹ vì ốc bươu vàng  được đưa vào Việt Nam với mục đích thương mại, không được  kiểm dịch nên trong thời gian qua đã  gây hại  mạnh do không có thiên địch của ốc bươu vàng  ở trong nước. Ở Miền nam trước đây, quân đội Mỹ đã đưa vào một số loại  cỏ (Cỏ mỹ, Mắc cỡ mỹ...) để  bảo vệ  khu quân sự  và sau đó chúng ta phải nhập loại  sâu ăn cỏ này vì chúng đã  gây hại  mạnh ở miền Nam.
c. Nuôi nhân và lây thả thiên địch trên ruộng
Kỹ thuật  này được  áp dụng với các loại  ký sinh chuyên tính hẹp.Khi được  thả trên ruộng, ký sinh sẽ tìm đên vật chủ ưa thích của chúng  để tiêu diệt .Việc lây thả được  tiến hành nhiều lần trong vụ, vào những thời gian thích hợp để ngăn chặn sự bùng phát của sâu hại. Ví dụ của kỹ thuật này là dùng ong mắt đỏ Trichogramma, ong được  nuôi nhân trong phòng thí nghiệm, rồi được  đem thả trên ruộng với một  mật độ 100.000 con /ha để trừ sâu đục thân và cuốn lá vì ong mắt đỏ ký sinh mạnh trên trứng của hai loại  sâu trên.
d. Sử dụng các chế phẩm sinh học
Phần lớn các chế phẩm sinh học có nguồn gôc  VSV như: nấm, vi khuẩn, virus, nguyên sinh động vật.
-Các chế phẩm từ  nấm  như: Beauveria và Metarhizum đang được  thử nghiệm ở nước ta để trừ rầy nâu, châu chấu và một số sâu hại khác.
-Các chế phẩm từ vi khuẩn phổ biến nhất hiên nay là BT (Bacillus Thurigiensis) dùng để trừ sâu non bộ cánh phấn như: sâu tơ, sâu keo da láng.
-Các chế phẩm từ virus nagỳ nay đang được  nghiên cứu và sử dụng  trừ sâu rất có hiệu quả, đặc biệt là các virsus nhân đa diện (NPV). Chúng được  phân lập từ kí chủ bị chết, nhân lên trong phòng thí nghiệm để tạo thành chế phẩm NPV, có tác dụng cao để trị sâu xanh hại bông, sâu tơ bắp cái, sâu khoang, sâu keo da láng. 
-Chế phẩm từ tuyến trùng và nguyên sinh động vật cũng đang được  ngiên cứu sử dụng  như tuyến trùng Romanomermis Spp để trừ ruồi đục nõn,sâu năn và ruồi đục lá hại lúa, tuyến trùng Neoplecta Spp để trừ sâu tơ,sâu keo da láng. 
e. Sử dụng Pheromone và Hormone điều hoà sinh trưởng  côn trùng

- Pheromone là chất tiết ra từ côn trùng  và nhện  để trao đổi thông tin giữa các cá  thể  cùng loài .Phổ biên nhất là Pheromone hấp dẫn sinh dục được  tiết ra từ con cái để quyến rũ con đực đến giao phối và Pheromone hội đàn do các cá thể tiết ra để gọi nhau tìm kiếm thức ăn hoạc giao phối. Các hợp chất tổng hợp tương tự như Pheromone đã được  dùng trong phòng trừ  sâu hại  với mục đích là bẫy dẫn dụ giết các con đực. Làm bẫy để theo dõi sự phân bố và  hoạt động  của côn trùng  trong công tác dự tính dự báo.

-Hormone là chất điều hoà sinh trưởng  có trong cơ thể sinh vật. Cơ chế tác động của các chất điều hoà sinh trưởng côn trùng là làm cho trứng phát triển  không bình thường (không nở hoặc bị chết sau nở), sâu non không hoá thành nhộng và trưởng thành được, một số có thể hoá trưởng thành nhưng không sinh sản được .
f. Kĩ thuật diệt sinh 
Kỹ thuật  này dựa trên phương pháp xử lý phóng xạ các con đực(ở giai đoạn nhộng hoặc cuối giai đoạn ấu trùng) làm chúng mất khả năng sinh sản.Các con đực đã bị diệt sinh,khi thả ra ngoài ruộng với số lượng đủ lớn,sẽ cạnh tranh với các con đực khác trong tự nhiên khi giao phối với con cái,làm trứng không được  thụ tinh và không nở được. 

Thiên địch ký sinh sâu

Thiên địch săn mồi ăn côn trùng


Vi sinh vật ký sinh côn trùng và động vật có ích

V. BIỆN PHÁP HÓA HỌC 
Đây là biện pháp cuối cùng khi đã sử dụng hết các biện pháp nêu trên mà không thành công sâu bệnh vẫn phát triển  mạnh. Khi đó ta cần rà soát lại xem thử đã làm sai khâu nào trong các biện pháp trên. Thông thường do bộ giống sử dụng đã bị đổ vỡ tính kháng hoặc thời tiết không thích hợp đã kìm hãm một số thiên địch phát triển  và như vậy sâu hại côn trùng  điều kiện  phát triển gây hại  mạnh. Trong trường hợp đặc biệt phải sử dụng  thuốc BVTV ta nên chú ý những điều sau đây:
-Sử dụng thuốc theo ngưỡng kinh tế. Trong thưc tế khó xác định được ngưỡng kinh tế của một loại  sâu bệnh hại, song ta nên cố gắng chỉ phun khi thấy  mật độ  sâu đủ lớn và xu thế (căn cứ thời tiết ,cây trồng ,tuổi sâu) còn tăng nữa thì mới phun. Lợi ích của việc này là tiết kiệm chi phí ,giữ cân bằng  sinh học trên đồng ruộng và giảm gây ô nhiễm môi trường .
-Sử dụng loại  thuốc tương đối an toàn với thiên địch. Nên sử dụng  thuốc có phổ tác dụng hẹp hoặc các thuốc vi sinh. Cần phải chon thời gian và phương thức xử lý ít ảnh hưởng đến thiên địch: ví dụ như việc xử lý thuốc Regent cho hạt giống để trừ bọ trĩ ,dòi đục lá ,sâu năn được đánh giá tốt vì ít ảnh hưởng đến thiên địch.
-Sử dụng thuốc theo  kỹ thuật  4 đúng: đúng thuốc , đúng nồng độ liều lượng , đúng lúc và đúng cách.
Nói chung biện pháp  hoá học  chỉ được  sử dụng  trong trường hợp khẩn cấp khi tình hình sâu bệnh   ở mức cao và điều kiện  còn có thể bộc phát mạnuh  mà áp dụng tất cả các biện pháp  đều không kìm hãm được. Biện pháp hoá học không được khuyến khích trong hệ thống  quản lý  dịch hại  tổng hợp.
4-V.    KẾT LUẬN 
Nếu được quan tâm một cách thích đáng trong việc ứng dụng phòng trừ tổng hợp dịch hại cây trồng thì sẽ đem lại hiệu quả tốt trong sản xuất nông nghiệp. Tiết kiệm chi phí đầu vào mà sản lượng lại cao và bền vững.

Trồng hoa trên bờ ruộng- Mô hình công nghệ sinh thái
Phương pháp mới trong Bảo vệ thực vật
                                                                                  Kỹ sư Hồ Đình Hải
Tài liệu tham khảo
6-http://phong-tru-tong-hop-dich-hai-huong-den-phat-trien NN-ben-vung