100 LOÀI SINH VẬT XÂM HẠI NGUY HIỂM NHẤT
TRÊN THẾ GIỚI - PHẦN II
Nên tham khảo: 100
Loài sinh vật ngoại lai xâm hại nguy hiểm nhất thế giới- Phần I trước khi xem phần II.
PHẦN II BAO GỒM:
-Động vật
không xương sống ở cạn
-Lưỡng
cư
-Cá
-Chim
-Bò
sát
-Thú
D-Động vật không xương sống ở cạn
53-Linepithema humile
Tên thường gọi: Kiến Achentian
Kiến Achentian được một số người đánh giá như Vua Genghis
của thế giới loài kiến. Loài kiến Achentina này có thành phần thức ăn đa dạng
và sinh ra rất nhiều kiến thợ cần cù và hung hãn. Khi đã thích nghi và phát
triển trong một nơi sống cực thuận, chúng thường loại trừ tất cả các loài kiến
khác, cả kiến bản địa lẫn du nhập.
54-Anoplophora
glabripennis
Tên thường gọi: Mọt gỗ Anoplophora
Mọt gỗ Anoplophora là loài bọ cánh cứng màu đen bóng và có
đốm trắng này là một loài địch hại nguy hiểm đối với các loài cây gỗ cứng tại
quê hương của chúng là Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản. Loài mọt này đã và
đang trú ngụ trong các bao bì bằng gỗ cứng tại Mỹ và Anh và sự phá hoại của
chúng đã được thông báo tại New York năm 1996 và Chicago năm 1998.
55-Aedes albopictus
Tên thường gọi: Muỗi vằn Châu Á, muỗi sốt xuất huyết
Loài muỗi vằn Châu Á được du nhập vào Mỹ và nhiều nước khác
theo vỏ lốp xe cũ nhập khẩu. Loài muỗi này liên quan đến việc truyền bệnh sốt
xuất huyết, viêm não ngựa phương đông, sán tim chó, và có thể cả vi rút viêm
não St. Louis và LaCrosse.
56-Pheidole megacephala
Tên thường gọi: Kiến Đầu To
Kiến Đầu To, có nguồn gốc từ châu Phi, là một loài sống lang
thang, lan tràn trên toàn cầu qua con đường thương mại của con người. Đây là
một loài kiến ăn thịt hung dữ đã tiêu diệt nhiều loài sinh vật bản địa bản địa
như kiến, bọ cánh cứng, bướm đêm và nhện.
57-Anopheles quadrimaculatus
Tên thường gọi: muỗi anophel, muỗi sốt rét
Loài muỗi tương đối to này là véc tơ truyền bệnh chính của
bệnh sốt rét. Loài này chủ yếu sinh sản ở các vực nước ngọt tĩnh và đốt người
và vật nuôi vào ban đêm.
58-Vespula vulgaris
Tên thường gọi: Ong Bắp Cày
Ong Bắp Cày làm tổ dưới đất và trong hốc cây và hốc nhà. Bên
cạnh việc đốt người rất đau, nó còn cạnh tranh với chim và các loài côn trùng
khác về thức ăn côn trùng và mật. Chúng cũng ăn cả quả và tìm thức ăn ở quanh
các thùng rác và trong các khu vực cắm trại du lịch
59-Wasmannia auropunctata
Tên thường gọi: Kiến lửa nhỏ
Kiến lửa nhỏ, bị coi là thủ phạm làm suy giảm tính đa dạng
loài, làm giảm số lượng côn trùng có cánh, mọt gỗ và tiêu diệt các quần thể
nhện. ở Galapagos, chúng còn ăn thịt cả rùa con mới nở và đốt mắt và huyệt của
rùa trưởng thành.
60-Cinara cupressi
Tên thường gọi: rệp bách
Loài rệp bách gây tác hại nghiêm trọng đối với các loài Bách
và Bách Xù ở nhiều nước. Đây là một loài rất hung hãn, sử dụng nhiều các bộ
phận khác nhau của cây làm thức ăn như cành xanh và thân gỗ. Tổn thất gây ra từ
chỗ phá hoại từng phần đến làm chết toàn bộ cây.
61-Anoplolepis gracilipes
Tên thường gọi: kiến điên, kiến vàng điên
Được gọi là kiến điên đẻ chỉ thị cho sự hoạt động một cách
hung dữ của chúng, loài kiến này đã và đang xâm lấn các hệ sinh thái bản địa và
gây tổn thất về môi trường ở các khu vực như Hawaii, Đảo Christmas, Seychelles
và Zanzibar
62-Platydemus manokwari
Tên thường gọi: Sán ốc sên
Sán ốc sên được du nhập vào nhiều đảo thuộc Thái Bình Dương
và Ấn Độ Dương để kiểm soát loài ốc sên Châu Phi. Sán ốc sên đã trở thành mối
đe doạ nghiêm trong đối với các loài nhuyễn thể chân bụng bản địa. Ở Guam , cũng đang đe doạ các loài trong họ Partulidae ở đảo
Mariana cũng như các loài sống trong đất đặc hữu ở đây.
63-Coptotermes formosanus
Tên thường gọi: Mối nhà
Loài Mối nhà này gây ra nhiều tổn thất đáng kể cho cây cối,
nhà cửa, cột điện thoại, đường điện và điện thoại ngầm. Ở Hawai, chi phí để
ngăn chặn và/hoặc kiểm soát sự phá hoại và sửa chữa những thiệt hại do loại mỗi
này gây ra lên tới hơn 60 triệu đô la mỗi năm.
64-Achatina fulica
Tên thường gọi: ốc sên Châu Phi, ốc sên
Loài ốc sên Châu Phi đã và đang được du nhập rất nhiều vào
các nước Châu Á, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, và gần đây
được du nhập vào vùng Tây Ấn. Đây là một loài địch hại nguy hiểm đối với nông
nghiệp và là véc tơ của một số mầm bệnh và giun tròn.
65-Pomacea canaliculata
Tên thường gọi: ốc bươu vàng (Golden apple snail)
Ốc bươu vàng là một loài ốc nước ngọt phàm ăn và ăn các loại
thực vật thuỷ sinh như sen, khoai sọ, củ ấu và lúa. Đây là một loại địch hại
nguy hiểm đối với mùa màng ở Đông Nam Á và Hawaii đã gây ra một mối đe doạ nguy hiểm
đối với nhiều vùng đất ngập nước trên toàn thế giới do có thể làm thay đổi sinh
cảnh và cạnh tranh với các loài bản địa.
66-Lymantria dispar
Tên thường gọi: Sâu róm sồi
Sâu róm sồi là một trong số những địch hại nguy hiểm nhất
đối với các vườn cây ăn quả và cây cảnh trên toàn vùng bán cầu bắc. Sâu róm sồi
cũng là một loài địch hại nguy hiểm đối với các khu rừng gỗ cứng. Sâu ăn hại
rụng lá hàng loạt dẫn đến làm giảm tốc độ sinh trưởng và sức sống của cây.
67-Trogoderma granarium
Tên thường gọi: Mọt Cứng Đốt
Mọt cứng đốt là một trong số địch hại nguy hiểm đối với các
kho chứa hàng trên toàn thế giới và là đối tượng kiểm dịch quốc tế. Chúng có
khả năng sống sót trong các kho chứa với một mật độ rất thấp và có thể sống rất
lâu trong trạng thái tiếm sinh.
68-Solenopsis invicta
Tên thường gọi: Kiến lửa đỏ
Kiến lửa đỏ là một loài côn trùng ăn thịt hung dữ, sinh sản
nhanh, có số lượng lớn và luôn chiếm ưu thế về hầu hết các nguồn thức ăn. Do có
nọc, chúng có thể đánh bại con mồi và đuổi những kẻ cạnh tranh là động vật có
xương sống lớn hơn ra khỏi nguồn tài nguyên của nó. Thức ăn của chúng gồm động
vật không xương sống, động vật có xương sống và thực vật.
69-Euglandina rosea
Tên thường gọi: sên sói tía
Loài sên sói tía ăn thịt này được du nhập vào các đảo thuộc
Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương làm tác nhân kiểm soát sinh học đối với một loài
xâm hại khác là ốc sên châu Phi (Achatina fulica). Đây là nguyên nhân gây ra sự
tuyệt chủng của loài sên Partulid ở vùng Polynesia
thuộc Pháp.
70-Bemisia tabaci
Tên thường gọi: ruồi hại khoai lang, ruồi thuốc lá
Loài ruồi hại khoai lang này là loại hại nguy hiểm đối với
các loại cây trồng làm thực phẩm và lấy sợi trên toàn thế giới. Sự thiệt hại
xảy ra do dòi đục và hút nhựa trên lá của cây, là véc tơ truyền virut gây bệnh
hại cây, và tạo ra dịch ngọt làm giá thể cho sự phát triển của nấm bồ hóng trên
lá.
E-Lưỡng cư
71-Bufo marinus
Tên thường gọi: cóc mía, cóc khổng lổ, cóc biển
Loài cóc mía được du nhập rộng rãi vào nhiều nước trên thế
giới, sử dụng làm tác nhân phòng trừ sinh học đối với sâu gây hại mía. Hiện nay
Cóc tía đã trở thành một địch hại ở những nơi được du nhập đến. Cóc tía rất
phàm ăn và ăn thịt tất cả các loại sinh vật mà nó tìm được. Cóc tía còn săn bắt
ăn thịt và cạnh tranh thức ăn, nơi sinh sản với các loài lưỡng cư bản địa.
72-Eleutherodactylus coqui
Tên thường gọi: Ếch Carribe
Ếch Carribe là một loài ếch nhỏ, ồn ào, ăn thịt sâu bọ, có
nguồn gốc từ Puerto Rico, nơi mà chúng sinh sản và có thể sống với mật độ đến
20000 cá thể trên một hecta. Chúng thích nghi và phát triển ở Hawaii và Đảo Virgin. ở Hawaii , chúng được coi vừa là loài gây hại ở
thành thị vừa có khả năng đe doạ đến các loài chim rừng bản địa.
73-Rana catesbeiana
Tên thường gọi: Ếch ương beo
Ếch ương beo phát tán đến nhiều nước do hoạt động thương mại
buôn bán thuỷ sản và cá cảnh. Ếch ương beo là đối tượng buôn bán và thường được
nuôi lấy thịt ở nhiều nước trên thế giới. Vấn đề chính là trong tự nhiên chúng
có khả năng thích nghi cao, cạnh tranh mạnh và ăn cả các loài bò sát bản địa.
F-Cá
74-Salmo trutta
Tên thường gọi: Cá Hồi Nâu
Cá hồi nâu được du nhập vào nhiều thuỷ vực nước lạnh trên
toàn thế giới để phục vụ việc câu cá, hiện nay đã thích nghi và phát triển tốt
ở nhiều nơi. Cá hồi nâu đã cạnh tranh lấn át làm giảm quần thể các loài cá bản
địa (đặc biệt là các loài khác thuộc họ cá Hồi), lưỡng cư và động vật không
xương sống do chúng ăn thịt, chiếm chỗ và cạnh tranh thức ăn.
75-Cyprinus carpio
Tên thường gọi: cá chép
Loài cá chép này được du nhập vào các vực nước ngọt trên toàn
thế giới để làm thực phẩm và làm cảnh. Loài cá chép này bị coi là một
loài gây hại vì chúng thường nhanh chóng đạt mật độ cao và khuấy động làm giảm
độ trong của nước, phá huỷ, làm bật rễ các loài thực vật thuỷ sinh là nơi trú
ngụ của nhiều loài sinh vật thuỷ sinh.
76-Micropterus salmoides
Tên thường gọi: cá vược miệng rộng
Do thịt ngon và hấp dẫn về mặt thể thao, cá vược miệng rộng
được du nhập rộng rãi khắp thế giới. Đây là một loài ăn thịt, phàm ăn, săn mồi
một mình và ăn cả ngày lẫn đêm. Thức ăn của chúng gồm cá, tôm, lưỡng cư và côn
trùng.
77-Oreochromis mossambicus
Tên thường gọi: Cá Rô Phi Mozambique
Cá Rô Phi Mozambique
được phổ biến, du nhập vào nhiều nước trên thế giới để nuôi làm thực phẩm. Các
quần thể đã thích nghi của loài này trong tự nhiên là kết quả của việc cố tình
thả ra hoặc để xổng từ các trang trại nuôi chúng. Đây là một loài ăn tạp
và chúng ăn gần như mọi thứ từ tảo đến côn trùng. Chúng tạo thành các quần thể
đông đặc và thiếu thức ăn trong các thuỷ vực sinh sống.
78-Lates niloticus
Tên thường gọi: cá vược sông Nile
Cá vược sông Nile được du nhập vào hồ Victoria năm 1954, ở đó nó đã góp phần làm
tuyệt chủng hơn 200 loài cá bản địa do bị chúng ăn thịt và cạnh tranh thức ăn.
79-Oncorhynchus mykiss
Tên thường gọi: cá hồi cầu vồng
Cá hồi cầu vồng là một loài cá làm trò chơi phổ biến và được
du nhập vào nhiều sông và hồ. Chúng đã phát triển nhanh và đe doạ loại trừ các
loài cá bản địa bằng cách ăn thịt ấu trùng đồng thời còn giao phối chéo với
những loài các hồi khác làm ảnh hưởng đến bộ gen của chúng. Ngoài ra chúng còn
cạnh tranh loại trừ một số loài cá khác bằng cách chiếm chỗ ở của chúng.
80-Clarias batrachus
Tên thường gọi: cá trê
Loài cá trê ăn thịt phàm ăn này có nguồn gốc ở Đông á và đã
được du nhập vào Florida
từ năm 1960 để gây nuôi. Từ đó loài cá trê này đã thích nghi và phát triển rộng
rãi trong tự nhiên trên toàn bang Florida .
Vào mùa khô, một số lượng lớn loài cá trê này có thể bị dồn tập trung lại trong
một số ao hồ và ăn thịt các loài cá bản địa ở đây.
81-Gambusia affinis
Được du nhập vào nhiều nơi trên thế giới với một quan điểm
sai lầm cho rằng chúng có khả năng diệt muỗi hiệu quả hơn so với các loài cá
bản địa ăn bọ gậy, loài cá gambu này đã và đang gây hại cho các hệ sinh thái thuỷ
vực vì đặc tính phàm ăn của chúng. Việc thả loài cá gambu để diệt bọ gậy muối
vẫn đang được một số cơ quan phòng chống muối sốt rét và muỗi gây bệnh khác
tiến hành.
G-Chim
82-Acridotheres tristis
Tên thường gọi: Sáo nâu
Đây là loài chim bản địa của Ấn Độ, nhưng đã và đang được du
nhập đến mọi nơi trên thế giới, chủ yếu là để tiêu diệt sâu hại nông
nghiệp. Tuy nhiên, loài chim này cũng làm suy giảm tính đa dạng sinh học
do việc cạnh tranh về nơi làm tổ, tiêu diệt các loài chim nhỏ và trứng của chúng
và đánh đuổi các loài động vật nhỏ. Tại Việt Nam , sáo nâu phân bố ở khắp mọi
vùng của đất nước.
83-Pycnonotus cafer
Tên thường gọi: Chào mào đít đỏ
Chào mào đít đỏ (có nguồn gốc ở một số vùng thuộc Châu Á)
được du nhập vào một số đảo ở Thái Bình Dương. Tại đây chúng gây ra nhiều vấn
đề nghiêm trọng như ăn quả và cây trồng cũng như mật hoa, hạt và chồi cây. Chào
mào đít đỏ là một loài hung hãn, cạnh tranh nơi ở và đánh đuổi các loài chim
khác.
84-Sturnus vulgaris
Sáo Đá xanh có nguồn gốc ở vùng Á Âu và Bắc Phi và hiện nay
đã xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới. Sáo Đá xanh là một loài cực kỳ phàm ăn
và ăn gần như tất cả mọi thứ làm giảm số lượng côn trùng bản địa và phá huỷ mùa
màng. Đây là một loài chim hung hăng và đã loại trừ nhiều loài chim bản địa do
cạnh tranh nơi làm tổ. Tại Việt Nam ,
Sáo Đá xanh bắt gặp ở Hải Dương và Hưng Yên vào mùa đông năm 1975-1976.
H-Bò sát
85-Boiga irregularis
Tên thường gọi: rắn nâu leo cây
Loài rắn nâu leo cây này đã và đang làm thay đổi hệ sinh
thái trên cạn và phá hoại hệ thống cung cấp điện của Guam .
Có nguồn gốc từ úc và Papua
New Guinea , loài rắn này nổi tiếng vì khả
năng trà trộn vào hàng hoá, lên các chuyến bay và đến nhiều nước trên thế giới.
86-Trachemys scripta
Tên thường gọi: Rùa Tai Đỏ
Rùa tai đỏ là một loài vật nuôi thông dụng và do đó đã phát
triển ở nhiều vùng trên thế giới và trở thành đối thủ cạnh tranh với các loài
rùa nước bản địa. Đây là loài ăn tạp và có thức ăn gồm côn trùng, tôm, giun, ốc
sên, lưỡng cư và cá con cũng như cả thực v ật thuỷ sinh.
I-Thú
87-Trichosurus vulpecula
Tên thường gọi: Thú có túi đuôi rậm
Thú có túi đuôi rậm sống đơn độc, ăn đêm, sống trên cây
(được du nhập từ Úc) phá hoại các khu rừng bản địa ở Niu Giê Lân bằng cách ăn
một số các loại lá và quả. Chúng còn ăn cả tổ chim và là vectơ truyền bệnh lao
ở bò.
88-Felis catus
Tên thường gọi: mèo nhà, mèo hoang
Mèo, ở nhiều dạng và nhiều kích thước khác nhau xuất hiện ở
khắp nơi trên thế giới trừ Úc và các đảo vùng thái bình dương. Mèo nhà, Felis
catus, được thuần hoá ở vùng đông Địa Trung Hải 3000 năm trước đây và từ đó đi
theo con người đến hầu hết mọi nơi trên thế giới và trở thành mèo hoang khi bị
bỏ rơi. Mèo hoang gây tổn thất lớn đối với nhiều loài chim bản địa.
89-Capra hircus
Tên thường gọi: dê capra
Dê capra là các loài ăn thực vật và có thành phần thức ăn
rất đa dạng. Dê ăn cả các loài cây mà cừu và các gia súc khác không ăn được do
đó tác động mạnh đến thảm thực vật bản địa và các loài động vật bản địa sống
nương tựa vào thảm thực vật đó. Dê capra cũng dễ dàng biến thành dê hoang và
truyền bệnh cho các loài động vật bản địa
90-Sciurus carolinensis
Tên thường gọi: Sóc Nâu
Sóc Nâu được nhập từ Nam Mỹ vào Anh, Ý, và Nam Phi làm vật
cảnh. Ở Anh và Ý chúng gây ra sự tuyệt chủng tại chỗ của loài sóc đỏ bản địa.
Dự báo chúng sẽ lan rộng từ vùng núi Anpơ đến một vùng Á Âu
91-Macaca fascicularis
Tên thường gọi: Khỉ Macaca, Khỉ Móc cua
Khỉ Macaca là loài bản địa thuộc vùng Nam Á. Chúng được du
nhập vào Mauritius vào đầu những năm 1600 và với sự vắng mặt của các loài thú
cạnh tranh và ăn thịt, chúng phát triển mạnh trên đảo này. Loài khỉ Macaca này
gây ra những tổn thất đáng kể cho nông nghiệp và được coi là nguyên nhân góp
phần làm tuyệt chủng nhiều loài chim rừng.
92-Mus musculus
Tên thường gọi: chuột nhắt
Chuột nhắt ăn các bộ phận của cây bao gồm hạt, cành xanh và
lá cũng như hầu như tất cả thức ăn của người và vật nuôi. Chúng gây ra những
tổn thất ghê gớm, làm phá huỷ hoặc làm ô nhiễm nguồn thức ăn cho con người và
cho chăn nuôi.
93-Myocastor coypus
Tên thường gọi: Hải ly Nam Mỹ
Hải ly Nam Mỹ là một loài gặm nhấm lớn, sống nửa trên cạn
nửa dưới nước có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Tuy nhiên sau khi được xổng ra từ các
trang trại nuôi lấy lông, chúng đã hình thành nên những quần thể hoang lớn ở
Bắc Mỹ, châu Âu và Châu Á. Chúng đào hang và phá huỷ bờ sông, đê điều và hệ
thống thuỷ lợi.
94-Sus scrofa
Tên thường gọi: Lợn hoang
Lợn hoang là lợn nuôi bị xổng hoặc thả ra. Được du nhập vào
nhiều nơi trên thế giới, chúng phá hoại mùa màng, tài sản và truyền nhiều loại
bệnh. Lợn hoang xới tung thảm thực vật bản địa, làm lan truyền hạt, phá huỷ các
quá trình sinh thái như diễn thế sinh thái và thành phần loài.
95-Oryctolagus cuniculus
Tên thường gọi: Thỏ Oryctolagus
cuniculus
Thỏ Oryctolagus cuniculus được du nhập vào hầu hết các lục
địa trừ Nam Cực và Châu Á. Chúng thường được du nhập bởi Hội Thuần hoá Động vật
vào hầu hết các quốc gia. Chúng đã phát triển rất nhanh vệ số lượng, ăn hại phá
huỷ thảm thực vật, đào hang, làm tăng xói mòn đất.
96-Cervus elaphus
Tên thường gọi: nai anxet, nai đỏ, nai sừng tấm
Nai sừng tấm là loài nai có kích thước lớn nhất, chiều cao
tính từ vai có thể lên đến 1,2m. Nai sừng tấm là một loài động vật nhai lại với
thức ăn gồm rất nhiều loài thực vật khác nhau kể cả thân của các cây non. Tại
những vùng có mật độ loài nai này cao, chúng gây ra tác động nghiêm trọng đến
thảm thực vật và cản trở việc tái sinh tự nhiên của thảm rừng bản địa.
97-Vulpes vulpes
Tên thường gọi: Cáo đỏ
Cáo đỏ được nhập vào nhiều nước cho mục đích săn bắn giải
trí nhưng đã nhanh chóng trở thành một loại địch hại do chúng có khả năng thích
nghi với nhiều loại sinh cảnh. Cáo đỏ là loài ăn thịt và chúng ăn thỏ, chuột,
cừu và dê non, chúng cũng ăn cả các loài động vật bản địa nhỏ.
98-Rattus rattus
Tên thường gọi: chuột đen
Chuột đen có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ, hiện nay loài
chuột này đã lan tràn trên khắp thế giới. Chuột đen ăn và phá hoại mọi thứ có
thể ăn được. Chuột đen là một loài rất nhanh, thường hay leo lên ngọn cây.
99-Herpestes javanicus
Tên thường gọi: Cầy nhỏ Ấn Độ
Loài cầy này vẫn được du nhập đến các hòn đảo trồng mía vùng
nhiệt đới. Do có khả năng cạnh tranh lớn, Cầy nhỏ Ấn Độ đã làm nhiều loài động
vật có xương sống bản địa bị tuyệt chủng, làm hại các loài vật nuôi và có nguy
cơ là vật truyền bệnh.
100-Mustela erminea
Tên thường gọi: chồn ecmin
Chồn ecmin ngày nay được phân bố trên toàn thế giới do xổng
ra từ các trang trại nuôi chúng. Chúng ăn chim, ăn trứng chim, và các loài thú
nhỏ bản địa. Chúng đã bị săn bắt từ nhiều thập kỷ nay những số lượng vẫn rất
nhiều.
Nguồn:
1-IUCN
Guidelines for the Prevention of Biodiversity Loss Caused by Invasive Alien
Species.
2-HIỆP HỘI VƯỜN QUỐC GIA VÀ KHU BẢO TỒN
THIÊN NHIÊN VIỆT NAM
(VNPPA)
114 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt
Nam
Tel: 04.37557356 Fax: 04.37560233 Hotline:
0983288663 (Mr Trường)
Email: administrator@vnppa.org.vn or
truonggacon@gmail.com